Tự do ý chí là nền tảng của trách nhiệm đạo đức và công lý xã hội.
Nếu phủ nhận tự do ý chí, khung khen–chê, thưởng–phạt mất nền tảng, vì không còn ai thật sự có thể làm khác đi. Hiểu tự do ý chí theo nghĩa năng lực đáp ứng lý do (reasons-responsiveness) cho phép chúng ta phân biệt rõ giữa hành vi cố ý, vô ý và bị cưỡng bức. Trên nền đó, đạo đức và pháp luật có thể quy trách, tha miễn hay khoan giảm một cách hợp lý, thay vì coi mọi sai lầm chỉ là “định sẵn”. Điều này phù hợp với trực giác đạo đức Việt Nam coi trọng trách nhiệm cá nhân và “đức năng thắng số”, đề cao nỗ lực có ý thức.
Niềm tin vào tự do ý chí nâng cao tự chủ, giảm hành vi sai trái và thúc đẩy hợp tác.
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm trong tâm lý học xã hội cho thấy khi con người bị ám gợi rằng “mọi thứ đã định”, họ gian lận và ích kỷ hơn; ngược lại, tin vào năng lực lựa chọn làm tăng tự kiểm soát và giúp đỡ. Thí nghiệm kinh điển của Vohs & Schooler (2008) cho thấy những người bị làm suy yếu niềm tin vào tự do ý chí có xu hướng gian lận điểm số nhiều hơn trong bài kiểm tra. Các nghiên cứu của Baumeister và cộng sự cũng ghi nhận việc giảm hành vi giúp đỡ khi niềm tin quyết định luận được kích hoạt. Dù không phải “phép màu thống kê”, bức tranh nhất quán này gợi ý giá trị thiết thực của tự do ý chí như một niềm tin định hình hành vi xã hội tích cực.
Tự do ý chí là động cơ của sáng tạo và tiến bộ, mở không gian cho những cái-mới.
Cảm thức “tôi có thể làm khác” là nhiên liệu nội tại cho dám nghĩ dám làm, từ nghệ thuật đến khởi nghiệp. Nếu tương lai chỉ là bản chép lại của quá khứ, động lực thử nghiệm, chịu rủi ro và bứt phá sẽ tàn lụi. Ngược lại, niềm tin vào khả năng tái cấu trúc lựa chọn khiến cá nhân dám rời khỏi quán tính, tạo ra chuẩn mực mới và giá trị mới. Trong bối cảnh Việt Nam đổi mới liên tục, tinh thần chủ động này chính là nguồn lực văn hóa thúc đẩy sáng tạo và thịnh vượng.
Kinh nghiệm cân nhắc, tự-điều chỉnh và phản tỉnh của chúng ta là bằng chứng thực hành cho tự do ý chí theo nghĩa tương thích.
Khi ta lắng nghe lý lẽ, thay đổi ý định, hoặc “hãm” một thôi thúc nhất thời, ta đang thể hiện năng lực hành động theo lý do của mình, không đơn thuần bị đẩy trôi. Ngay cả các kết quả thần kinh học như thí nghiệm Libet cho thấy chuẩn bị vô thức trước hành động cũng không phủ định vai trò của ý thức; nhiều nghiên cứu tiếp sau nhấn mạnh “quyền phủ quyết” và điều chỉnh có chủ đích vẫn can thiệp được vào thời điểm và nội dung hành động. Triết học tương thích (compatibilism) diễn giải tự do như sự đáp ứng với lý do trong bối cảnh nhân quả, đủ mạnh để neo giữ trách nhiệm và ý nghĩa của giáo dục, trị liệu, và tự rèn. Ở cấp thực hành, đó chính là thứ tự do mà chúng ta trải nghiệm, nuôi dưỡng, và có thể cải thiện qua rèn luyện đức hạnh.